Văn hóa Lào và dấu tích tín ngưỡng Phật giáo ở Buôn Đôn

Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, cha của ông Y Thu Knul từ đất nước Triệu Voi (Lào) xuôi thuyền theo dòng sông Mê Kông, rồi ngược dòng Sêrêpôk đến buôn bán, trao đổi hàng hóa với các tộc người sống dọc sông Sêrêpôk.

Thấy vùng đất này phong cảnh hữu tình, sông suối hiền hòa, đất đai mênh mông, trù phú, người dân sống chân tình đầy lòng mến người quý khách, nên cha ông Y Thu đã chọn vùng đất này làm nơi cư trú. Lúc bấy giờ, bà Yă Wăm (bà Vằm) cai quản cả một vùng đất mênh mông rộng lớn (gồm cả Ea Súp, Cư M’gar, Krông Buk…). Bà thấy cha của Y Thu Knul khỏe mạnh, thông minh, giỏi nghề buôn bán, lại tự nguyện lấy cô gái M’nông bản địa làm vợ, nên bà đã chia cho ông vùng đất dọc ven sông để lập làng. Lúc đầu ông chọn một số cồn đất nổi bên sông để lập làng, đặt tên là Bản Đon (theo tiếng Lào: Bản là làng, Đon là đảo, Bản Đon có nghĩa là làng đảo), về sau mọi người quen gọi là Bản Đôn – Buôn Đôn.

Cũng từ đó, người Lào có mặt ở Buôn Đôn. Lúc đầu chỉ có 5-7 ngôi nhà, về sau tăng lên vài chục ngôi nhà. Từ ngày lập nên Bản Đôn, cha của Y Thu Knul bỏ nghề buôn bán trên sông nước mà theo các chàng trai M’nông đi săn voi. Dần dần ông trở thành người săn voi giỏi nhất vùng. Sau này Y Thu Knul lớn lên nối nghiệp cha và trở thành người săn voi nổi tiếng của Tây Nguyên. Ông đã săn được voi trắng và mang biếu vua Thái Lan và được phong tặng danh hiệu Khun Ju Nốp (Vua voi).

gôi nhà cổ ở Buôn Đôn kết hợp kiến trúc truyền thống của dân tộc Lào với kiến trúc truyền thống Êđê, M’nông.
gôi nhà cổ ở Buôn Đôn kết hợp kiến trúc truyền thống của dân tộc Lào với kiến trúc truyền thống Êđê, M’nông.

Hiện nay người Lào ở Buôn Đôn có trên 70 hộ, gần 300 người chủ yếu là ở buôn Trí, buôn Yang Lành, buôn Hwa. Ở buôn Trí còn giữ được ngôi nhà bằng gỗ trên 100 tuổi, kiến trúc theo nét văn hóa truyền thống của dân tộc Lào, kết hợp với văn hóa của người Êđê, M’nông. Nhà có hai nóc, cao nhọn như hai ngọn núi, bốn mái và hai nóc song song với nhau nhưng cửa chính lại mở ngay phía đầu hồi (như nhà truyền thống Êđê). Cột nhà, khung nhà, tường nhà, sàn và mái lợp đều làm bằng gỗ K’cit. Sàn nhà cách mặt đất ba mét, cầu thang lên xuống rộng 1,2 mét (giống cầu thang người Kinh). Các cột nhà, hiên trước đều trang trí hoa văn của dân tộc Lào khá độc đáo.

Trước đây, người Lào ở Buôn Đôn có chùa thờ Phật. Các già làng kể lại rằng: Từ khi cha của ông Y Thu Knul đến đây lập Bản Đôn thì văn hóa Phật giáo của người Lào cũng được hình thành tại nơi đây. Hiện nay dấu tích còn lại ở buôn Yang Lành là thác Phật, cây Bồ Đề trên 100 tuổi và tín ngưỡng Phật giáo của các gia đình người Lào ở buôn Trí, buôn Hwa, buôn Yang Lành. Trước đây, hằng năm, cộng đồng người Lào thường tổ chức lễ tế Phật vào mùa xuân và lễ Phật Đản vào rằm tháng tư âm lịch tại đền thờ Phật ở gốc cây bồ đề bên dòng Sêrêpôk để cầu bình an, no đủ, hạnh phúc. Còn trong các lễ hội truyền thống đều có múa hát mừng mùa, múa hát giao duyên, đối đáp nam nữ (gọi là Lăm Sơn Su), múa hát tập thể (Lăm muôn Phăm Wông) hòa với tiếng khọng (chiêng) rộn ràng, náo nhiệt. Cũng trong những ngày lễ hội này, người già thường kể cho con cháu nghe những câu chuyện cổ (Sao Phơn) của ông bà truyền lại, như truyện Xin Xay, Xu Mi Wong, Ma Ha Wong, Kă Đăm, Thao Be, Chăm Pa Xi Tôl… Ngoài những câu chuyện cổ, người già còn kể trường ca (lăm lượm) suốt đêm này qua đêm khác nhằm giáo dục truyền thống chống giặc, chinh phục thiên nhiên, ca ngợi người anh hùng lý tưởng của dân tộc Lào cho thế hệ con cháu.

Về nhạc cụ của người Lào ở buôn Đôn có khọng (chiêng), một bộ chiêng từ 5-7 cái có núm, khèn (8 ống trúc), khuy (sáo từ 4-8 lỗ), xí xọ (đàn nhịe từ 2-4 dây), chắp pi (đàn nguyệt từ 3-6 dây) và kong (trống vỗ)… Về trang phục, hiện nay phụ nữ Lào ở Buôn Đôn vẫn giữ được những bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình (áo ngắn tay, váy hoa sặc sỡ, màu tím, màu hồng có pha lẫn với màu vàng, với những đường nét hoa văn độc đáo hình thoi, hình tam giác, hình lưỡng hà…). Còn đàn ông thì mặc áo tay dài, lưng quấn xà rông với nhiều màu sắc rực rỡ. Họ chỉ mặc những bộ trang phục này vào những ngày lễ hội của cộng đồng.

Ngoài nghề làm rẫy, trồng lúa nước, người Lào ở Buôn Đôn còn có nghề khai thác lâm sản quý của núi rừng, nghề đánh cá trên sông Sêrêpôk, nghề buôn bán trao đổi hàng hóa với các buôn làng sống dọc sông Sêrêpôk, đặc biệt là nghề săn voi và thuần dưỡng voi rừng, Những người săn voi nổi tiếng có cha con ông Y Thu Knul, Nay Hoang, Y Suêk, Y Pui, Y Them, Ama Kông… Voi săn được sau khi đã thuần dưỡng thành voi nhà, họ thường mang bán cho các buôn làng ở Tây Nguyên, hoặc đưa sang các nước láng giềng Lào, Thái Lan, Campuchia, Miến Điện để đổi lấy chiêng ché và vải vóc, lương thực, đồ trang sức quý giá. Người Lào ở Buôn Đôn hiện vẫn còn giữ được nghề săn voi và thuần dưỡng voi rừng. Họ còn lưu truyền gìn giữ các bài cúng voi (xeng xang tu rúc) như cúng voi trước khi đi săn, cúng voi nhập buôn, cúng sức khỏe cho voi, cúng voi đẻ, cúng đám cưới cho voi, cúng cắt ngà voi, cúng bán voi, cúng sức khỏe cho nài voi và chú voi…

Vẫn lưu giữ những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc mình, đồng thời người Lào ở Buôn Đôn từ bao đời nay đã sống hòa nhập, đoàn kết, gắn bó với các dân tộc bản địa ở Dak Lak, cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương giàu đẹp.

Theo baodaklak.vn