Tục bắt chồng “man rợ”

Trai gái trong các buôn làng Tây Nguyên bước vào mùa cưới trong những ngày cuối vụ, thường là từ tháng giêng đến tháng tư hằng năm.

Đó là lúc mà mùa màng vừa xong, lúa đã suốt trơ từng cuống rạ, những trái cà phê cuối cùng đã về yên vị ở góc nhà.

Mùa cưới, vốn là mùa của những đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng đâu đó, với những hủ tục đang tồn tại, thậm chí còn phát triển mạnh với những hệ lụy của nó đã làm khổ sở, khốn quẫn cho biết bao cặp vợ chồng và những bậc sinh thành của họ…

Dung dăng dung dẻ, em đi… bắt chồng

Nhiều tộc người ở Tây Nguyên theo dòng mẫu hệ. Khác với người Kinh, con trai đi hỏi vợ thì ở đây, các cô gái… dung dăng dung dẻ “em đi bắt chồng”. Trong khoảng thời gian “nông nhàn” đó, những cô gái và chàng trai miền sơn cước “da nâu, mắt sáng, vóc dáng hiền hòa” làm cổ động viên kéo nhau theo sơ đíu (cô dâu) đi kiếm tấm chồng. Lúc mặt trời chực chờ xuống núi, đám đi dạm hỏi chuẩn bị bắt đầu, và đám hỏi ấy sẽ kết thúc khi bình minh ló dạng.

Đã có ba mặt con nhưng chị Ma Hen người Chu Ru ở buôn Krăng Gõ (Đơn Dương, Lâm Đồng) còn đỏ mặt ngượng nghịu kể với chúng tôi về cái đêm cả tộc kéo về nhà chị để chuẩn bị đi “chạm ngõ” nhà trai.

Trời nhá nhem tối, khi mọi người đang tất bật xếp rượu, xếp khăn và cặp nhẫn cưới bằng bạc để sang nhà trai thì cô dâu tương lai lóng ngóng trong bộ đồ thổ cẩm truyền thống ngồi đợi ở góc phòng. Mặc dù trong cái bụng đã thấu hiểu là “thằng” Ya Sen nó thương mình, nhà trai chắc sẽ không từ chối lễ hỏi đơn sơ, nhưng Ma Hen vẫn hồi hộp lắm.

Câu chuyện thách cưới của bà Naria Ya Ngon ở buôn Kranggo đã làm lớp trẻ bàng hoàng.
Câu chuyện thách cưới của bà Naria Ya Ngon ở buôn Kranggo đã làm lớp trẻ bàng hoàng.

Lần đầu tiên và cũng là duy nhất trong đời con gái, Ma Hen đi… bắt chồng. Đêm ấy là một đêm cuối năm, khi mọi người vừa đến đầu buôn của chàng rể tương lai thì cũng là lúc đàn gà trống cất tiếng gáy sáng.

Bây giờ, Ya Sen đã là chồng của Ma Hen, nhà Ma Hen nghèo lắm, họ thương nhau và dòng họ nhà trai này có lòng cảm thông và nhận thức tiến bộ không thách cưới, nên đám hỏi không rườm rà lễ vật. Dẫu vậy, Ma Hen nói, nhà đằng gái vẫn không bỏ sót thứ lễ vật và thủ tục gì trong phong tục cưới xin truyền thống của đồng bào mình…

Ở buôn Pró Ngóh (huyện Đơn Dương), già làng Ya Ngôn là người hiểu biết đầy đủ phong tục cưới xin truyền thống của đồng bào Chu Ru. Già bắt đầu câu chuyện: Ngày xưa, trai buôn nào “được mắt”, nhà gái sẽ âm thầm chuẩn bị lễ vật rồi chọn một đêm tối trời nào đó bất ngờ kéo sang họ nhà trai.

Thương lượng được thì bắt chồng, không được thì cả họ gái kéo về, đợi đến một ngày khác sẽ quay trở lại. Sao phải đi bắt chồng vào ban đêm? Gìa Ya Ngôn giải thích: “Phải đi trong đêm tối, vì may được nhà trai thuận ý thì tốt, còn không thì cũng về trong đêm nếu không người ta nhìn thấy thì xấu hổ lắm.”

Lễ vật trong đám cưới truyền thống của người Chu Ru bao gồm những thứ gì? Thường vẫn là tiền, vàng, dây cườm, khăn… Khăn trắng của người Chăm tốt nhất chỉ đáng giá 40 – 50 ngàn đồng, nhưng khăn đen của người Cơ Ho đáng giá 1 chỉ vàng một chiếc. Khăn là vật rất quý của đồng bào Chu Ru, dùng để quấn quanh người như áo ấm.

Có 3 loại khăn được người Chu Ru dùng để làm lễ vật, gồm khăn luh (màu trắng), khăn aban (màu đen) và khăn dơla (màu trắng). Khăn dơla là khăn đắt nhất, từ 700 – 800 ngàn đồng/tấm. Tấm khăn cũng là một vật quan trọng trong đám hỏi. Khi nhà trai đã ưng thuận rồi, sẽ giao một căn phòng riêng cho đôi trẻ.

Cô dâu (sơ đíu) và chú rể (pơ sang) sẽ trùm chung một tấm khăn, cầm chung một chiếc liềm và bước vào phòng. Tấm khăn và chiếc liềm tượng trưng cho sự đầm ấm, cho sự ăn nên làm ra của họ. Gìa làng Ya Ngôn nói:“Khi xong xuôi rồi bên nhà trai giao phòng cho đôi vợ chồng mới cưới. Hai vợ chồng trùm khăn và cầm liềm bước vào phòng. Khoảng 3 – 4 giờ sáng thì nhà gái đón và nhà trai cùng đưa con trai tới nhà gái, đưa trong đêm luôn”.

Thông thường, sau đám hỏi cô dâu về nhà chú rể sống khoảng tám ngày. Đó là khoảng thời gian cô dâu mới phải làm việc để giúp gia đình chồng chăm lo vườn tược, sắm sửa cửa nhà. Sau tám ngày này nhà gái sẽ làm một mâm lễ vật sang trọng mang sang nhà trai để dắt con gái và xin con rể về. Lúc này bố mẹ chú rể nếu có điều kiện sẽ cho con mình 1 con trâu, 4 gùi lúa giống, nồi niêu, chén bát để làm của hồi môn.

Nếu nhà gái có điều kiện thì tổ chức đám cưới, còn không thì chú rể về nhà vợ sống và đôi trẻ chính thức thành vợ chồng. Trong khoảng thời gian này, nhà gái và nhà trai thường tổ chức ăn mừng, đánh đồng la và thổi khèn mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ.

“Vì chưng bác mẹ em nghèo…”

Tục phổ biến ở các buôn làng Nam Tây Nguyên trong đời sống lứa đôi là tục bắt chồng, do các tộc người như Chu Ru, Cơ Ho Cil, Lạch… vẫn còn giữ chế độ mẫu hệ. Ngày nay, cuộc sống ở vùng đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, điều kiện về văn hóa tinh thần cũng được nâng lên, những tưởng rằng hủ tục trong đời sống đồng bào đã được xóa bỏ, nhưng thực tế các hủ tục ấy đã có những biến thái mới ở một số buôn làng, nhất là tục thách cưới.

Cộng đồng người Chu Ru ở thôn Kan Kil, xã Próh (Đơn Dương), hay ở xã Tà Năng (Đức Trọng, Lâm Đồng) vẫn còn tồn tại hủ tục thách cưới nặng nề mỗi khi người phụ nữ tuổi cập kê đi “kiếm tấm chồng”. Già làng Ya Du, trưởng thôn Próh Ngoh, cho biết: Bây giờ, nhiều nhà người Chu Ru trong thôn vẫn còn thách cưới cao, từ 1 đến 2 cây vàng, hoặc chí ít cũng 5 chỉ trở lên.

Bà Tuteng Ma Bao, người Chu Ru ở xã Ka Đơn có đến chín người con – 5 trai, 4 gái. Ba con trai đã đi lấy vợ, bà cũng “đòi” được của nhà gái đưa mỗi đứa ba chỉ vàng. Nhưng con gái bà bắt chồng, bên nhà trai quyết liệt đòi từ 1-1,5 lượng vàng. Cực chẳng đã, bà Ma Bao đã phải bán dần cho đến những mảnh ruộng cuối cùng và bây giờ phải kiếm sống từ việc bắt cua đồng. Gia đình sống trong một căn nhà tình thương nhỏ bé, bên cạnh một túp lều cũ rách dùng làm bếp. Trong nhà bếp không có lấy một hạt gạo, ngoài vườn không một cây bắp, khóm bí.

Những người mẹ khác như Tu Prong Mapia (80 tuổi, người Chu Ru, thôn Ka Đê), Jơ Lâng Ma Ních (73 tuổi, người Cơ ho, xã Próh)…cũng đã khuynh gia bại sản để cho 5 – 6 cô con gái của họ được…“bắt chồng”. Nhiều gia đình khác trở thành “chúa chổm” vì lo “kinh phí bắt chồng cho con”.

Gia đình bà Pdum Ma Nhen, người Chu Ru, xã Ka Đơn: Cô con đầu “bắt chồng”, nhà trai đòi 8 chỉ vàng, 5 triệu tiền mặt, 10 cái khăn (trị giá từ 100-500 ngàn đồng/cái); 15 dây cườm (300 ngàn đồng/dây). Đến con thứ, nhà trai đòi 8 chỉ vàng; 5,7 triệu đồng; 9 cái khăn; 12 dây cườm. Đám cưới đầu tiên bà Ma Nhen đi vay 20 triệu đồng, bà thỏa thuận nộp cho chủ nợ 80 bao lúa.

Cô thứ hai đi “bắt chồng”, bà cho thuê 2 sào ruộng trong 10 năm để đổi lấy 5 chỉ vàng. Và vay thêm 5 chỉ nữa, mỗi chỉ vàng phải trả 30 ngàn đồng tiền lãi một tháng. Tính nguyên tiền lãi mỗi tháng bà Ma Nhen phải trả một triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng. Một số tiền cực lớn đối với một hộ nghèo người dân tộc Chu Ru!…

Việc thách cưới cao hay thấp tùy thuộc vào dòng họ của nhà trai lớn hay nhỏ, tùy thuộc vào “giá” của chàng con rể tương lai. Ngày nay, nhà trai thường “ra giá” 5 – 6 triệu đồng tiền thách cưới thay lễ vật. Nếu như nhà trai không chịu cho con của họ về nhà gái, họ sẽ đòi nhà gái thêm một lần tiền như vậy nữa mới được “bắt” về. Bởi vậy, nếu sơn nữ nhà nghèo không bắt được chồng về thì phải theo ở nhà trai, khi nào làm gom đủ số vốn trả nợ lúc thách cưới khi đó mới được phép đón chồng về nhà mình.

Cũng có nhiều trường hợp vì thách cưới quá cao, nên hai bên trai gái ăn ở với nhau có mấy mặt con rồi mới gom góp đủ tiền làm lễ cưới. Nhà ông Ya Thang ở buôn Próh Ngoh có thằng Ya Leo vào tuổi trưởng thành. Ông nói: “Nhà Ma Oanh phải đưa tao 5 chỉ tao mới ưng cái bụng mà gả con trai cho”.

Còn nhà Ma Lan đòi 6 chỉ vàng mới cho nhà gái bắt con trai mình, kèm theo tiệc tùng mổ bò, giết heo để mời cả bà con dòng họ. Và còn rất nhiều nhà trai “ra giá” kiểu như thế ở cái thôn miền núi còn lắm khó khăn này mà đám cưới cô Jơlông Ma Hờm vào tháng 12 – 2009 sắp tới sẽ là một kỷ lục, khi gia đình cô phải trao cho nhà chồng 50 triệu đồng, và kinh phí tổ chức đám cưới sẽ hết 50 triệu nữa…

Ông Ya Bây ở xã Tà Năng (Đức Trọng), một người đàn ông Chu Ru có 5 người con gái, nói:“Bây giờ một nhà mà có nhiều con gái như tao là khó khăn lắm, nào phải chia ruộng đất, trâu bò cho nó; nếu nó xấu, không bắt được chồng thì phải nuôi nó, nếu bắt chồng được thì tiền thách cưới hơn cả cây vàng, có khi còn bù thêm 5 chỉ nữa nhà trai mới chịu.”

Ðám cưới người dân tộc thiểu số bây giờ linh đình hơn, làm tiệc lớn, có khi kéo dài mấy ngày, có nhạc sống, có trống chiêng thâu đêm suốt sáng. Chúng tôi là vị khách không mời của đám cưới nhà Ha Rong Bình, tổ chức cho con gái bắt chồng, một đám cưới có “quy mô” vào loại trung bình. Ngồi bên già Ha Gút, tôi hỏi: Đám này thách bao nhiêu? “Ồ, hơn 5 triệu đấy, nhà gái còn phải làm heo, mổ trâu mời hết cả bà con trong buôn cùng dự tiệc”.

Ðối với người Cơ Ho Cil ở đây tiệc cưới vẫn thường kéo dài vài ngày khi con gái bắt chồng. Nếu như ngày xưa “đồng la ba chóe” (lễ vật thách cưới), thì nay lễ vật nhà gái phải nộp cho nhà trai vẫn là: đồng la, chóe, tô, chén, chuỗi cườm, ùi (khăn quấn)… trị giá lễ vật hết khoảng 2 cây vàng, không kể việc nhà gái tổ chức tiệc tùng đãi cả già trẻ, lớn bé trong buôn.

Gánh nặng … tương lai.

Đã có 3 mặt con nhưng cô Nai Hem vẫn chưa trả hết nợ bắt chồng.
Đã có 3 mặt con nhưng cô Nai Hem vẫn chưa trả hết nợ bắt chồng.

Huyện Đơn Dương chỉ cách thành phố Đà Lạt khoảng 40 km, nhưng khi tìm hiểu về tục bắt chồng và thách cưới ở đây, chúng tôi cảm tưởng như mình đang lạc vào một thế giới khác. Ví như ở xã Ka Đơn có 538 hộ người Cơ Ho, 215 hộ người Chu Ru vẫn đang lưu giữ tục “bắt chồng”.

Theo đó, người con gái đến tuổi lấy chồng sẽ được cha, mẹ hoặc người mai mối tìm cho một tấm chồng. Nếu được ưng thuận, tất cả việc đám hỏi, đám cưới do nhà gái lo liệu. Sau khi cưới, chàng rể về sống bên nhà vợ.

Một “tấm chồng” thông thường ở Ka Đơn hiện nay có giá từ 1- 1,5 lượng vàng, kèm theo 5-10 triệu đồng tiền mặt. Cá biệt, như đã nói ở trên, có đám mà giá được nhà trai đưa ra ngất ngưởng, từ 2 – 5 lượng vàng, kèm theo…50 triệu tiền mặt.

Đa phần người Chu Ru ở Đơn Dương hiện nay không cho nhà gái tổ chức đám cưới, nếu chưa giao đủ lễ vật. Tất cả những trường hợp nợ do bắt chồng trước đây, nếu để qua ba đời mà không trả được, khi “con nợ” chết gia đình vẫn phải làm thịt trâu, bò để cúng. Dân làng vẫn đến dự, nhưng rất lạ là tất cả đều không ăn. Còn với tộc người Cơ Ho, luật tục cho phép trong hoàn cảnh quá ngặt nghèo gia đình phía vợ được nợ các lễ vật trong đám cưới. Họ có thể trả dần và dĩ nhiên đôi vợ chồng trẻ phải nai lưng ra làm để trả. Trong trường hợp cặp vợ chồng này không trả hết thì đến đời con, đời cháu phải trả.

Chính vì vậy mà những gia đình có đến năm, bảy cô con gái thì coi như là tai họa trên trời rơi xuống. Vì thế mà có nhiều gia đình chỉ đủ tiền bắt chồng cho một trong số năm, bảy cô con gái của mình, số còn lại đành chấp nhận “ở giá”. Chị Nai Thu, một cán bộ phụ nữ xã, tính giùm tôi riêng thôn Próh Ngó (xã Próh) đã có tới 14 cô không thể bắt được chồng.

Nhưng vì thương con, nhiều gia đình trong các tộc người đã làm tất cả những gì có thể để “mua hạnh phúc” cho con gái mình: có người bán trâu, bò, có gia đình vay ngân hàng, cầm cố nhà cửa, ruộng đất, vay nợ bên ngoài với lãi suất cao ngất ngưởng. Có gia đình bán hết ruộng đất của cha ông để lại, bán cả ruộng đất do nhà nước cấp, để con gái của họ…có một tấm chồng cho bằng chị bằng em…

Bên cạnh những phong tục truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày nay đã trở thành những nét văn hóa đặc sắc, thì nhiều hủ tục lạc hậu vẫn còn dai dẳng đeo bám, không chỉ cản trở nếp sống văn minh mà còn là những nguyên nhân trực tiếp đẩy không biết bao nhiêu thân phận lâm vào bi kịch.

Từ tục “bắt chồng” đến tệ “thách cưới” là một câu chuyện dài mà với phóng sự nhỏ này thật khó nói hết. Vốn là một tập tục truyền thống của những tộc người theo dòng mẫu hệ mà ở nhiều nơi đã biến thái thành những hành vi thực dụng. Cùng với những hủ tục lạc hậu khác, hệ lụy của nó đã gặm nhấm trực tiếp vào cuộc sống đồng bào, từ kinh tế đến đời sống tinh thần xã hội.

Đã đến lúc, cần có sự can thiệp của bộ máy chính quyền và các đoàn thể, mà trước hết là đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, với mục tiêu mang lại hạnh phúc bền vững cho những lứa đôi, giảm bớt sự bần cùng cho các gia đình vốn đã nghèo mà còn phải bán chác, cầm cố, vay mượn và bằng mọi cách để hòng “mua hạnh phúc” cho con cái mình.

Vì cha mẹ nghèo, không có tiền để bắt chồng, cô gái này đã trở thành người phụ nữ đơn thân .

Hiện nay, ở các buôn làng Tây Nguyên, có rất nhiều phụ nữ độc thân, đơn thân do không bắt được chồng được vì nghèo, không có tiền, vàng, vì hình thức không đẹp, vì cha mẹ không có con trai để trao đổi cho nhau.

Từ chế độ mẫu hệ, phụ nữ có quyền lực và được quý trọng hơn nam giới (khi người vợ chết, người chồng phải khăn gói trở về bên nội), nhưng trước gánh nặng của tập tục thách cưới, giờ đây nhiều gia đình dân tộc thiểu số muốn sinh cả con trai con gái để thực hiện “giải pháp” có qua, có lại.

Tục bắt chồng, thách cưới đã hệ lụy đến kế hoạch hóa gia đình. Và hơn hết, hủ tục đã làm cho sự nghèo túng mãi mãi đeo bám trên những mái nhà, những buôn làng, những nẻo đường cao nguyên.

Theo 24h.com